Ảnh : Thảm họa Cách mạng Văn hóa Trung Quốc cách đây 50 năm

Thuỵ My RFI – Cách đây 50 năm tại Trung Quốc, « Thông tư ngày 16 tháng Năm » của Mao Trạch Đông đã khởi động « Đại cách mạng văn hóa vô sản », mở đường cho mười năm thanh trừng đẫm máu và tàn phá đất nước.

Tuần báo L’Obs đưa chúng ta trở lại với bước ngoặt lịch sử, vẫn là một khoảng tối không được bộ máy tuyên truyền Trung Quốc đề cập đến dù nửa thế kỷ đã trôi qua.

Hình 1 (EyePress News/AFP): Cách mạng Văn hóa được Mao Trạch Đông chính thức tung ra vào năm 1966 để « bảo đảm sự trong sáng của ý thức hệ cộng sản », « trừ khử các thành phần thân tư bản ». Trên thực tế, cuộc « cách mạng » này nhằm giúp Mao nắm lại việc kiểm soát Đảng, trong lúc ông ta bị tước đi thực quyền. Được cổ vũ bằng những lời kêu gọi nổi dậy của Mao, các học sinh lao vào một cuộc « đấu tranh giai cấp » đầy bạo động. Nhiều triệu người bị đàn áp đến chết, vô số công trình văn hóa và tôn giáo bị phá hủy. Phong trào kéo dài cho đến khi Mao qua đời năm 1976, để lại phía sau một đất nước đang trong cơn sốc, một nền kinh tế tê liệt và một xã hội bị khủng hoảng nặng nề.

Hình 2 (AFP) : Xuất xứ của cuộc « cách mạng » này là gì ? Năm 1958, Mao Trạch Đông tung ra chiến dịch Đại nhảy vọt, hậu quả là gây ra nạn đói khủng khiếp nhất lịch sử làm 45 triệu người chết. Trước thất bại này, Đảng không còn muốn theo xu hướng mao-ít cực đoan, và thay thế Mao bằng Lưu Thiếu Kỳ (Liu Shaoqi) – trong ảnh – nhân vật số 2 của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Lên làm chủ tịch nước năm 1989, Lưu Thiếu Kỳ cố gắng gầy dựng lại nền kinh tế đang bị suy sụp. Mao Trạch Đông sau đó tung ra nhiều phong trào để chống lại ông Lưu, cho đến khi giới trẻ đáp ứng lại lời kêu gọi của Mao vào tháng Năm năm 1966. Lưu Thiếu Kỳ là một trong những nạn nhân đầu tiên của Hồng vệ binh. Bị cách chức năm 1966, bị tống giam năm 1967, ông bị tra tấn và lăng nhục cho đến khi qua đời năm 1969.

Hình 3 (EyePress News/AFP): Mùa xuân năm 1966, Hồng vệ binh gồm học sinh trung học và sinh viên bị lóa mắt bởi các bài diễn văn của Mao, đã hăng hái tuần hành trước thần tượng của mình. Ở khán đài trên cao, Mao Trạch Đông vỗ tay tán thưởng. Bên cạnh ông ta là nhân vật số 2 của Đảng – thống chế Lâm Bưu (Lin Biao) – người sẽ thay thế Lưu Thiếu Kỳ (thứ ba trong ảnh) bị cách chức sau đó ít lâu.

Hình 4 (Tân Hoa Xã/AFP): Để chống lại các lãnh đạo khác của Đảng vốn không giấu diếm sự nghi ngại, Mao Trạch Đông đã xuống bơi cùng với 5.000 người khác trên sông Dương Tử ở Vũ Hán hôm 16/07/1966. Thành tích này của Mao đã được tuyên truyền rộng rãi nhằm chứng tỏ ông ta vẫn còn khỏe, đủ sức làm người đứng đầu đất nước. Ngay khi quay về Bắc Kinh, Mao ra lệnh « Oanh kích các tổng hành dinh », cho phép Hồng vệ binh tấn công những người đối lập với ông ta trong Đảng.

Hình 5 (Jean Vincent/AFP): Ngày 08/08/1966, Trung ương Đảng thông qua quyết định « 16 điểm », khuyến khích tất cả người dân Trung Quốc « đập tan các lãnh đạo đi theo con đường tư bản chủ nghĩa », và « các lãnh đạo văn hóa nào bênh vực cho tư tưởng tư sản phản động ». Hàng triệu thanh niên phấn khởi đổ về Bắc Kinh, tuần hành trước Mao Trạch Đông và Lâm Bưu. Lời kêu gọi « phá hủy Tứ Cựu » – gồm ý tưởng, văn hóa, phong tục và tập quán cũ – đã gây ra nhiều thảm họa.

Hình 6 (RIA Novosti/AFP): Nhiều lãnh đạo Đảng bị đưa ra đấu tố trước nhân dân, chẳng hạn tướng La Thụy Khanh (Luo Ruiqing), từng là bạn chiến đấu của Mao Trạch Đông trong cuộc Trường Chinh, thành viên Ban bí thư Trung ương Đảng và tổng tham mưu trưởng quân đội. Tội của ông là dám phản đối Mao và Lâm Bưu. Sau nhiều lần bị đấu tố công khai, ông tự tử bằng cách nhảy từ tầng ba xuống, nhưng không chết mà chỉ bị gãy chân. Trong tấm ảnh chụp vào tháng 2/1967, người ta thấy tướng La Thụy Khanh lại bị lôi ra đấu tố, mặc dù chân đang bị bó bột. Hàng ngàn trí thức, tu sĩ nhiều tôn giáo khác nhau và những người bị tình nghi là « phản cách mạng » đã bị Hồng vệ binh hành quyết.

Hình 7 (AFP) : Trên khắp mọi miền đất nước, tất cả các công trình văn hóa, lịch sử, tôn giáo đều bị Hồng vệ binh tấn công. Tại Bắc Kinh, hàng ngàn công trình lịch sử giá trị đã bị phá hủy. Các nhân vật lỗi lạc quá cố bị quật mồ, đốt di cốt. Những nơi thờ tự đều bị phá hoại. Ở Tây Tạng, hầu như toàn bộ 6.000 tu viện đều bị đặt chất nổ phá hủy.

Hình 8 (AKG): Hồng vệ binh cũng phá hủy hoàn toàn nhiều thư viện, sau đó vào các nhà dân tịch thu tùy thích, đốt cháy tất cả những gì bị cho là « tư sản » như sách báo, tranh ảnh, dĩa hát…Lo sợ bị chúng nhắm đến, nhiều gia đình đã tự tiêu hủy mọi thứ văn hóa phẩm trong nhà.

Hình 9 (Jean Vincent/AFP) : Các « đại tự báo » (báo chữ to) hiện diện khắp nơi trong thời kỳ Cách mạng Văn hóa. Ban đầu sinh viên sử dụng để tố cáo các « tư sản phản cách mạng » lãnh đạo nhà trường, sau đó cái mốt này lan rộng. « Quần chúng nhân dân » được khuyến khích bày tỏ ý kiến trên các đại tự báo này, đã trở thành một loại « truyền thông tự do ». Nhưng các đại tự báo còn được dùng để tấn công những đối tượng bị cho là có tư tưởng không đúng đắn, dẫn đến nhiều thảm kịch. Quyền viết đại tự báo được ghi vào Hiến pháp năm 1975, sau đó bị hủy bỏ năm 1979. Ảnh được chụp vào tháng 5/1966 tại Bắc Kinh.

Hình 10 (AFP): Ngay từ đầu phong trào, Mao Trạch Đông bổ nhiệm bà vợ thứ tư là Giang Thanh (Jiang Qing) đứng đầu « Nhóm Cách mạng Văn hóa » trong Trung ương Đảng. Đây là cơ hội cho cựu diễn viên khao khát nổi tiếng, thanh toán ân oán với tất cả những ai dám ít nhiều chống lại bà ta. Kể từ năm 1967, Giang Thanh tung ra « chiến dịch làm trong sạch nghệ thuật », cái cớ để trả thù nhiều nghệ sĩ. Bà áp đặt những vòng kim cô tư tưởng siết rất chặt. Chỉ có tám « chương trình biểu diễn kiểu mẫu » đúng đắn về ý thức hệ được cho phép diễn, trong đó có hai vở múa ba-lê là « Hồng sắc nương tử quân »« Bạch Mao Nữ ». Trong ảnh, Giang Thanh đeo kính, đứng giữa cùng với nhóm múa, tháng 4/1967.

Hình 11 (Bridgeman Images): Cách mạng Văn hóa lan rộng, vượt ra ngoài vòng kiểm soát. Các phe nhóm Hồng vệ binh đối địch tấn công lẫn nhau, dù tất cả đều lớn tiếng khoe trung thành với Mao. Tại một số nơi, đã trở thành một cuộc nội chiến thực sự. Tình hình hỗn loạn cho đến nỗi Mao Trạch Đông phải yêu cầu tổng tham mưu trưởng quân đội Lâm Bưu tái lập trật tự kể từ 1967. Sau khi lợi dụng giới thanh niên để lật đổ những kẻ thù trong Đảng, Mao bèn tống khứ họ. Những « kẻ nổi loạn », bị kết án là đồng lõa với tư sản, bị hành quyết công khai và hàng triệu Hồng vệ binh bị đày về nông thôn để « được quần chúng cải tạo ». Ảnh chụp tháng 8/1968.

Hình 12 (Tân Hoa Xã/SIPA) : Những cuốn « Mao chủ tịch ngữ lục », thường được gọi là Hồng bảo thư (Sách quý màu đỏ), được xuất bản trước khi diễn ra Cách mạng Văn hóa. Với tính thực dụng, Đảng tuy đã tước quyền Mao sau thất bại của Đại nhảy vọt, cho rằng sẽ làm cho Mao bớt tức giận bằng cách thúc đẩy quần chúng tôn thờ cá nhân Mao chủ tịch. Sau khi Cách mạng Văn hóa được khởi động, những cuốn sách đỏ này trở thành một thứ Kinh thánh mà mỗi người dân đều phải học thuộc lòng. Lâm Bưu ra lệnh quân đội phải tổ chức những buổi học bắt buộc (trong ảnh là các phi công quân sự, chụp năm 1969), sau đó phổ biến ra tất cả các cơ quan hành chính.

Hình 13 (AFP) : Nhân Đại hội Đảng lần thứ 9 năm 1969, Lâm Bưu được ca ngợi là « người bạn chiến đấu thân thiết nhất của Mao chủ tịch »« người kế nghiệp được toàn thể nhìn nhận ». Nhưng Mao nghi ngờ phó thống soái của mình tìm cách qua mặt. Sự thất sủng của Lâm Bưu là một trong những chương nhiều nghi vấn nhất của thời kỳ Cách mạng Văn hóa. Theo thông tin chính thức, thì ngày 13/09/1971, Lâm Bưu bỏ trốn sang Liên Xô sau khi âm mưu lật đổ bị vạch trần. Chiếc máy bay chở ông cùng với gia đình và những người thân tín bị rơi xuống Mông Cổ, không có ai sống sót. Trong bức ảnh chụp vào tháng 9/1970, Lâm Bưu đứng phía sau Mao Trạch Đông.

Hình 14 (AFP) : Lâm Bưu đã bị trừ khử, thủ tướng Chu Ân Lai (Zhou Enlai) được Mao cho phép phục hồi nền kinh tế, giáo dục và hành chính. Do bệnh nặng, Chu Ân Lai được người dưới quyền thân tín vừa được phục hồi danh dự là Đặng Tiểu Bình (Deng Xiaoping) trợ giúp. Các nhà tư tưởng cực đoan do Giang Thanh cầm đầu, bèn tung ra chiến dịch « đả kích Khổng Tử ». Cuộc chiến mới đánh vào các giá trị truyền thống thực ra nhắm vào Chu Ân Lai và Đặng Tiểu Bình, bị lên án là muốn kết liễu cách mạng và đẩy Trung Quốc vào con đường tư bản chủ nghĩa. Cuộc chiến giữa hai phe kéo dài cho đến khi Chu Ân Lai mất rồi đến lượt Mao Trạch Đông năm 1976. Trong ảnh là một vở múa phê phán Khổng giáo, năm 1974.

Hình 15 (AFP) : Mao Trạch Đông qua đời ngày 09/09/1976. Ngày 10/10, người kế vị được chỉ định là Hoa Quốc Phong (Hua Guofeng) được quân đội ủng hộ, đã bắt giam Giang Thanh và các đồng minh của bà ta. Tin này được mọi người hồ hởi đón nhận. Ngày 01/11, một cuộc diễu binh (ảnh) được tổ chức để chào mừng tân lãnh tụ. Nhưng Hoa Quốc Phong trị vì không được bao lâu : do phản đối mọi thay đổi về chính trị, ông bị Đặng Tiểu Bình tước bỏ quyền hành vào tháng 12/1978.

Hình 16 (AFP) : Sự sụp đổ của « Tứ nhân bang » tức « bè lũ bốn tên », nhóm tư tưởng cực đoan do Giang Thanh cầm đầu đánh dấu hồi kết của Cách mạng Văn hóa. Bị kết án đã đàn áp 730.000 người và làm cho 35.000 người chết, họ bị lãnh những bản án nặng nề năm 1980. Phiên tòa xử « bè lũ bốn tên » được truyền hình tường thuật, giúp lên án Cách mạng Văn hóa mà không đặt lại vấn đề về di sản của Mao cũng như tính chính danh của Đảng. Ảnh chụp các bị cáo trước tòa ngày 27/11/1980, gồm Trương Xuân Kiều (Zhang Chunqiao), Vương Hồng Văn (Wang Hongwen), Giang Thanh, Diêu Văn Nguyên (Yao Wenyuan).

Hình 17 (AFP) : Bị toàn thể mọi người căm ghét, Giang Thanh chỉ lên nắm quyền được là nhờ sự hỗ trợ của Mao, và duy trì được vị thế nhờ nương theo những xu hướng cực đoan nhất. Khi Mao Trạch Đông chết, bà ta tìm cách nắm trọn mọi quyền hành, khiến cả tổ chức Đảng và quân đội phải liên minh để chống lại. Trong khi các trợ thủ im lặng hoặc thú tội, Giang Thanh là người duy nhất phẫn nộ phản đối trong phiên tòa xử « bè lũ bốn tên » năm 1980. Bị lãnh án tử hình treo rồi chuyển thành án chung thân, Giang Thanh tự sát năm 1991. Trong ảnh là Giang Thanh trong phiên tòa ngày 25/01/1981.

Hình 18 (AFP) : Đặng Tiểu Bình và vợ thứ ba là Trác Lâm (Zhuo Lin) (bên phải trong ảnh) năm 1969. Bị thất sủng thời Mao năm 1968, được Chu Ân Lai triệu hồi, giao quyền và sau đó lại bị thất sủng lần nữa khi Chu qua đời năm 1976, Đặng Tiểu Bình xuất hiện trước mắt Đảng và dân chúng đang bị khủng hoảng như một người cứu rỗi, có thể lật qua trang sử đẫm máu của Cách mạng Văn hóa. Các cải cách cơ bản đưa ra tháng 12/1978 đã chấm dứt các thập kỷ sai lầm chính trị khiến đất nước lụn bại. Bùng nổ kinh tế do Đặng châm ngòi đã đẩy Trung Quốc lên vị thế các cường quốc hàng đầu thế giới. (Cũng chính Đặng Tiểu Bình đã khởi động cuộc chiến biên giới Việt-Trung năm 1979).

Leave a comment

Filed under Uncategorized

Leave a comment